Đầu tiên, cây giống cơ bản, độ sâu trồng, khoảng cách cây và các chỉ số khác có thể được điều chỉnh về mặt định lượng.
Những cây con cơ bản được cắm vào máy cấy lúa được xác định bởi số lượng hố (mật độ) được chèn trên mỗi mẫu Anh và số lượng cây trên mỗi hố. Theo yêu cầu của việc canh tác chất lượng quần thể lúa gạo, trồng và giảm cây con, khoảng cách hàng của máy cấy được cố định ở mức 30cm và khoảng cách giữa các cây có nhiều lần điều chỉnh hoặc vô cấp, đạt mật độ trồng từ 10.000 đến 20.000 lỗ mỗi mu.
Điều chỉnh tay cầm di chuyển ngang (đa tốc độ hoặc vô cấp) và tay cầm điều chỉnh cấp cây theo chiều dọc (đa tốc độ) để điều chỉnh diện tích của khối nhỏ (số lượng cây con trên mỗi lỗ) để đạt được các yêu cầu về cây giống cơ bản thích hợp, và độ sâu cũng có thể được truyền qua tay cầm. Điều chỉnh thuận tiện và chính xác có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật nông học.
Thứ hai là có một hệ thống định hình thủy lực để cải thiện tính ổn định của hoạt động trồng lúa.
Nó có thể liên tục điều chỉnh trạng thái máy theo sự dao động của bề mặt ruộng và lớp đáy cứng để đảm bảo sự cân bằng của máy và độ sâu chèn. Đồng thời, do bề mặt đất khác nhau do đất cứng và đất mềm nên ván tàu được giữ ở một áp lực tiếp đất nhất định để tránh hiện tượng thoát bùn mạnh và ảnh hưởng đến cây con cắm vào.
Thứ ba, trình độ cơ điện tử cao, vận hành linh hoạt.
Hiệu suất cao máy cấy lúa có trình độ công nghệ cơ khí tiên tiến trên thế giới, mức độ điều khiển tự động hóa và cơ điện tử cao, đảm bảo đầy đủ độ tin cậy, khả năng thích ứng và tính linh hoạt trong vận hành của máy. Thứ tư, hiệu quả công việc cao, tiết kiệm nhân công, tiết kiệm chi phí. Máy cấy kiểu đi bộ có hiệu suất vận hành lên tới 4 mu/giờ và tốc độ cao kiểu di chuyển. máy cấy lúa là 7 mu/giờ. Trong điều kiện vận hành bình thường, hiệu suất làm việc của máy cấy đi bộ thường là 2,5 mu / giờ và tốc độ di chuyển cao. máy cấy lúa là 5 mu/giờ, cao hơn nhiều so với hiệu quả trồng nhân tạo.